Tundra Trek



Trong gần suốt ba năm trời, hầu như mỗi ngày, tôi đã cầu nguyện rằng: “Ôi, Chúa ơi, xin đừng gửi con đi truyền giáo – không phải Châu phi, không phải Ấn Độ hay New Guinea hay bất cứ nơi nào khác – một khi con còn độc thân. Vâng, thưa Chúa, con sẽ đi nếu như Chúa thật sự muốn con đi, nhưng con hy vọng rằng đó không phải là điều Chúa muốn. Nếu con có gia đình, vâng, con sẽ đi, con sẽ vâng dạ va ra đi cả ngàn lần. Nhưng nếu độc thân… thật là cô đơn lắm thay! Và ai sẽ chăm sóc cho con?” (Đó là trước khi xảy ra phong trào phụ nữ - khi phụ nữ muốn được các ông chồng yêu thương họ, trân trọng và chăm sóc cho họ).

Tôi sẽ làm gì khi tôi chỉ có một mình bơ vơ bên ánh lửa leo lét của chiếc đèn dầu, cô đơn từ đêm này sang đêm khác? Khi tôi gặp nguy hiểm, ai sẽ ở bên cạnh tôi? Vâng, tôi biết rằng Chúa sẽ chăm sóc con cái Ngài. Ngài sẽ an ủi họ, gìn giữ họ và trợ giúp họ - đôi khi thôi – Tôi đã từng quan sát rất nhiều, nhưng dường như Chúa không phải luôn luôn lúc nào cũng như thế. Nếu có ai đó nói với tôi rằng nếu tôi tin cậy nơi Ngài, Ngài sẽ chăm sóc hết thảy mọi điều đó cho tôi, chắc chắn tôi sẽ nói lại rằng: “Tôi biết Ngài sẽ làm như vậy.” Nhưng trong tôi vẫn cứ lo sợ mãi về điều này làm sao ấy!

Đến Alaska
Một ngày kia, tôi nhận được lá thư của chị tôi, Elizabeth, gửi đến từ Alaska. Trong thư, anh rể tôi, tiến sĩ Harvey Heidinger, đã thêm vào vài hàng như sau: “Nếu như em đủ can đảm và đủ giàu có (tôi không có đủ cả hai), thì anh chị có thể sắp sếp cho em một chuyến đi vào sâu trong các làng mạc bên này.”

Nội dung chính của bức thư chính là vào khoảng giữa tháng bảy, họ sẽ dời khỏi Anchorage và không lâu sau đó, không còn nghi ngờ gì nữa, họ sẽ đi truyền giáo đến Châu á trong khoảng thời gian bốn hay năm năm, bởi vậy nếu tôi muốn đến thăm họ, tôi phải nhanh chân lên.

Ngay lập tức tôi đã ên lịch để nghỉ phép và cố gắng làm thêm ngoài giờ để tôi có thể có thêm chút thu nhập. Cái ý tưởng “đủ can đảm” bị kẹt lại. Tôi sẽ ở đâu nếu như tôi đi vào các làng bên đó? Tôi không giàu có. Làm sao tôi có thể sắp sếp đi thêm chuyến đi này mà không có tiền?

Nhưng rồi những tia hy vọng cũng lóe lên. Đây chính là cơ hội dành cho tôi! Khi tôi năm trên giường mình mỗi đêm, tôi đã quyết định rằng tôi phải can đảm lên để có thể đi đến các làng sâu trong Alaska. Tôi sẽ đi thật sâu vào trong các làng đó mà không phụ thuộc vào ai hết, vì tôi muốn có thể tự khám phá xem Chúa sẽ làm gì với tôi lúc đó. Liệu Chúa có thật sự chăm sóc và bảo vệ tôi hay không?


"Đây chính là cơ hội của tôi! Khi tôi nằm trên giường mình hằng đêm, tôi đã quyết định rằng tôi có đủ can đảm để đi đến vùng Alaska."
“Vâng, em sẽ đến,” tôi trả lời lại thư cho chị Elizabeth và anh Harvey. “Em không giàu, và có lẽ cũng chẳng can đảm, nhưng em sẽ làm một chuyến vào các vùng sâu vùng xa đó. Anh chị cứ sắp sếp chuyến đi cho em nếu như anh chị nghĩ là sẽ không có vấ đề trở ngại gì.” Tôi biết rằng chuyến đi này sẽ đi trên một chiếc máy bay nhỏ. Tôi không thích đi máy bay nhỏ chút nào hết. Tôi đã viết một bản đại loại như di chúc phòng trường hợp tôi không thể quay về, tôi cũng dọn dẹp căn hộ của mình sạch sẽ hơn mọi ngày, và cuối cùng đã bay chuyến bay sáu tiếng đồng hồ từ Los Angeles đến Anchorage.

Khi tôi vừa đến, anh Harvey đã nói rằng: “Anh chị đã sắp sếp cho em một chuyến đi thật thú vị để vào các làng mạc. Bệnh viện Native của chính phủ muốn em giúp hộ tống để đưa một em bé về lại nhà của mình tại ngôi làng đó. Chiều mai (thứ sáu) phi công sẽ đến để đón em. Em có thể dừng lại tại làng Nondalton hoặc là làng Newhalen. Rồi từ đó, em có thể đi thăm các làng khác chung quanh và quay lại đây với anh chị vào thứ ba tuần sau. Chuyến đi này được miễn phí vì em giúp hộ tống bệnh nhân về nhà.”

Tôi sẽ ở đâu trong suốt bốn hoặc năm ngày đó? Dường như không ai biết. Sau khi ngủ được vài giờ đồng hồ, chúng tôi thức dậy vào buổi sáng thứ sáu trời đầy mây để chuẩn bị hành lý. Một ít áo quần để thay đổi, một cái túi ngủ và một hộp nhỏ đựng ít thức ăn – đó là tất cả những gì tôi mang theo.

Bắt Đầu Cuộc Hành Trình
Vào khoảng ba giờ chiều, mọi chuyện bắt đầu xảy ra. Có một người giao cho tôi đứa bé người thổ dân khoảng 10 tháng tuổi và một túi giấy trong đó có tả và bình sữa. Trên lưng của đứa bé có một cái thẻ ghi tên nó, Esther.1 Trên đó cũng ghi rằng “viêm phổi”, “10 tháng”, và “Nondalton”. Nhưng tôi không phải chỉ nhận có một đứa trẻ đó. Ngoài đứa bé đó ra còn có thêm Mary, John 10 tuổi, và Alice 9 tuổi – tất cả đều là thổ dân.

Chúng tôi bay ngang qua vùng Cook Inlet, nơi có những dòng nước gợn song, màu tái tái xanh. Bay qua các dãy núi xanh và càng thăm thẳm xanh! Những đám mây, có trắng, có xám và có xanh trôi lững lờ trên các dẫy núi, và chan chúc nhau trên nền trời xanh thẳm. Tuyết phủ trên những đỉnh núi phía dưới các đám mây. Ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, tạo nên những tia nắng xanh và bạc trên những đỉnh núi và trên cái vịnh bên dưới. Chúng tôi tiếp tục bay, cho đến khi chúng tôi đến bán đảo Kenai. Tại đây, có những cây vân sam đánh bại thời tiết vẫn sừng sững trải dài hàng dặm dọc theo các bãi đầm lầy. Cũng tại đây, những chú nai sừng tấm lội bì bõm dưới các vũng bùn và xuyên suốt cả lãnh nguyên.

Những đứa trẻ ngồi yên lặng, và chỉ lên tiếng khi được hỏi đến, và những lúc đó, chúng phải ráng nói thật to để ấn át tiếng của động cơ máy bay. Tôi chợt thấy mình đang nghĩ đến Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên các dòng nước, những cây vân sam và cả bầu trời. Trái đất dường như rất trật tự ngoài kia. Tôi cảm thấy ăn năn vì đã thử Chúa. Nhưng tôi thật sự rất muốn biết. Liệu Chúa có biết tôi hay không?
Chẳng bao lâu sau, Arnold, anh phi công, lại đưa chúng tôi ngang qua các dòng sông. Tôi ước gì bạn có thể nhìn thấy quang cảnh của ngày hôm ấy: thật bình yên, tĩnh lặng, êm ả trong nơi thanh vắng tĩnh mịch. Rồi chúng tôi rẽ đến hướng có các núi, nơi có dòng sông Newhalen, chúng tôi bay dọc theo con sông này thêm vài dặm giữa những ngọn núi phủ đầy tuyết. Hoàn toàn không nhìn thấy bất cứ căn nhà, hoặc con đường, hoặc chiếc xe hơi nào!

Cuối cùng, chúng tôi đảo một vòng và đáp xuống mặt nước tại Nondalton. Có khoảng 2 chục người thổ dân chạy đến chỗ chúng tôi, và tôi đã đưa cho họ cái túi địu em bé và Alice. Hai trăm bốn mươi dặm từ trạm xe lửa hoặc từ đường cao tốc. Chắc chắn một điều rằng Đức Chúa Trời có hiện diện tại đó. Nhưng nếu đi xa hơn nữa thì sao? Chúa sẽ làm gì với tôi?

Chúng tôi cất cánh và đi tiếp theo con sông Newhalen lần nữa, lại tiếp tục băng qua lãnh nguyên bao phủ bởi những cây vân sam và đến với hồ Iliamna, hơn 100 dặm. Một lúc sau đó, Arnold – anh chàng đưa thư cũng như giao các đứa trẻ hỏi tôi rằng “tối nay cô định sẽ ngủ ở đâu?”
“Ồ, tôi nghĩ chắc sẽ ngủ ở phòng khách của trường học hoặc ở ngoài lãnh nguyên,” tôi bất chợt trả lời. Chúng tôi hạ cánh xuống mặt nước, bên cạnh nhà của anh chàng phi công, cách làng Newhalen khoảng chừng bảy dặm. Vợ của Arnold đến đón chúng tôi trên một chiếc xe buýt nhỏ. Có một vài con đường mòn xung quanh khu vực đó và chúng tôi có thể chạy trên đó.

Arnold lại lên đường để phát mấy lá thư, Naomi, vơ của anh ấy dắt tôi vào trong nhà họ. Cô ta nói rằng phòng khách của nhà trường đã bị khóa cửa, và ngủ ở ngoài lãnh nguyên thì không có an toàn chút nào hết. “Cô có thể ngủ lại tại phòng khách của nhà chúng tôi” cô ấy đề nghị. Tuy ngoài trời vẫn còn sáng, nhưng cũng đã xế chiều rồi, nên tôi vui vẻ nhận lời cô ấy.

Tại bàn ăn tối, chúng tôi đã ăn một hộp thức ăn chay mà tôi mang theo. Cả gia đình Arnold rất vui vẻ khi họ có thể thay đổi món ăn thay vì ăn món nai sừng khô như mọi khi. Chúng tôi tráng miệng bằng món bánh nướng chanh. “Thật kỳ lạ” tôi tự nhủ trong lòng, “họ rất phấn khởi với thức ăn mà tôi mang theo. Liệu Chúa có biết trước rằng những người này họ đã ngán món thịt nai sừng khô không? Dĩ nhiên là Ngài biết! và bánh nướng chanh nữa – dĩ nhiên Chúa biết rằng đó là món tôi khoái khẩu nhất. Tất cả đã được chuẩn bị sẵn và để sẵn trong tủ lạnh khi tôi đến”.

Những đứa trẻ hát đi hát lại khúc hát của bài hát “Chúa có cả thế gian trong tay Ngài” (He’s Got the Whole World in His Hands). Chắc hẳn Chúa đang muốn nhắn nhủ điều gì đó với tôi, tôi hồi tưởng lại mọi chuyện. Phía xa xa, trong góc phòng khách có chậu hoa lồng đèn, loại hoa mà tôi yêu thích nhất trong tất cả các loài hoa, làm cho căn phòng vui tươi hẳn lên.

Tối hôm đó khi tôi nằm trên giường, tôi đã nghĩ, làm sao tôi có thể tránh xa những người chung quanh? Tôi nghĩ rằng tôi không thể nào thực hiện được kế hoạch thử Chúa vì lúc nào chung quanh tôi cũng có người này, người khác. Rồi tôi ngủ thiếp đi, ngủ một cách trằn trọc, rồi tôi thức dậy, trong lòng vẫn ngổn ngang những suy tư.

Những Khám Phá
Ngay khi chúng tôi vừa ăn sáng xong, có ba đứa trẻ chạy vào “tụi con tìm thấy một tổ chim” chúng la lên phấn khởi, “nhanh lên, hãy chạy ra xem, nó nằm ở phía bên kia bờ sông.” 

“Làm sao mà chúng ta ra đó được?” “Bằng cái bè cao su” Kathy, đứa bé mười một tuổi giải thích. Sau đó, Kathy, Jeannine bạn của Kathy và tôi lẳng lặng chuồn nhanh vào chiếc bè và bơi nhè nhẹ khoảng vài mét ra chỗ có cái tổ chim bằng đất bùn, nổi lên khoảng một tấc trên mặt nước. Joe sáu tuổi, và Dick chín tuổi đã đến trước bằng bè của chúng và chúng đang cố gắng hết sức để không gây tiếng ồn. chúng tôi kéo chiếc bè lại thật gần và nhìn thấy trong tổ chim có hai cái trứng to bằng quả trứng gà nằm trong cái tổ có lót một ít cỏ. Phía xa xa có một con chim lặn đang dõi theo mọi việc đang diễn ra, tất cả mọi thứ thật thanh bình giống như không thể có thật vậy.

Chèo ngược lại vào trong bờ, chúng tôi nhìn thấy ba con chim nhạn biển bắc cực màu trắng muốt đâm bổ xuống mặt nước để bắt cá, đuôi của chúng xòe ra như muốn cắt ngang bầu trời xanh thẳm. Một con chim sẻ cánh vàng la toáng lên và bay vút về phía chân trời khi tôi vô tình làm cho nó hoảng sợ. Những lời của Đức Chúa Giê-su đến trong tâm trí tôi: “Hãy xem loài chim trời, chẳng có gieo, gặt, cũng chẳng có thâu trữ vào kho tàng, mà Cha các ngươi trên trời nuôi chúng. Các ngươi há chẳng phải là quý trọng hơn loài chim sao?” (Ma-thi-ơ 6:26).2

Những loài chim trời – chim lặn, chim nhạn biển, chim sẽ vàng… tất cả đều được Cha thiên thượng chăm sóc. Và những đứa trẻ lại tiếp tục hát bài hát “Chúa có cả thế gian trong tay Ngài”.
Quay lại “nhà”, Naomi đề nghị rằng tất cả chúng tôi nên bay qua phía bên kia đảo để thăm một người phụ nữ thổ dân mới sanh đứa con được năm ngày. Bay gần như là phương tiện di chuyển duy nhất để qua khu vực đó. Những đứa trẻ rất háo hức khi được đi đến một nơi nào đó.
Chúng tôi bay thấp thấp ngang qua những hòn đảo nhỏ và cuối cùng đáp xuống cạnh ngôi làng bé xíu. Chị của tôi có gửi tôi mang theo một thùng áo quần trẻ em để xem ai cần thì giúp, nên tôi rất vui mừng giao thùng đồ ấy cho bà mẹ này và đứa bé con xinh đẹp của bà.

Ôi Chúa ôi, ngay tại hòn đảo nhỏ xíu lẻ loi này Ngài cũng hiện diện ở đó, hiện diện cùng người phụ nữ mà chồng cô ta hầu như lúc nào cũng vắng nhà vì phải đi câu cá, hiện diện cùng đứa bé mới chào đời này và những đứa trẻ khác nữa. Ngài còn gửi cả áo quần cho đứa bé nữa chứ!
Mặc dù bầu trời chuyển mưa, chúng tôi vẫn cất cánh và sau đó ghé xuống một bờ biển đầy sỏi, rồi đi bộ trên con đường phủ đầy những rong rêu và lá dương xỉ. Nếu bạn là người thích ngắm nhìn những gì to lớn, bạn có thể ngắm nhìn những ngọn núi xanh rì, với những cạnh phủ đầy băng phía xa xa; nếu bạn là người thích chiêm ngưỡng những vật nho nhỏ, bạn có thể ngắm nhìn những bông hoa việt quất màu hồng mọc đầy dưới chân. Nếu bạn là người thích sự tĩnh lặng, đây chính là chỗ ấy, yên tĩnh, cô liêu; còn nếu bạn là người yêu thích sự ồn ào, nào nhiệt thì chính những con chim sẽ vàng khi bị quấy động sẽ phá tan đi sự yên tĩnh khi chúng cất tiếng kêu quác quác 108 lần trong một phút. Vâng, và gió sẽ rít, và sóng vỗ rì rào, và những giọt mưa sẽ cất tiếng hát vang trên hồ Iliamna.

Và nếu bạn tha thiết muốn nghe một bài hát, bạn sẽ được nghe những tiếng hát văng vẳng vọng đi vọng lại: “Chúa có trong tay Ngài những ngọn gió, những giọt mưa… và Ngài có cả thế gian trong tay Ngài.” Tay của tôi thật nhỏ nhoi, có phải vì thế mà tôi không thể nào hiểu được rằng tay của Cha thiên thượng là to lớn dường nào chăng?

Những bông hoa trên lãnh nguyên thật đẹp làm sao. Có những bông hoa hình ngôi sao màu trắng mọc đầy trên nền cỏ xanh. Hoa việt quất thì nhiều vô số kể. Những cây sơn thù du cao khoảng gần một tấc nở rộ giữa những mảng rêu dại. “Hãy xem những hoa ngoài đồng,” Đức Chúa Giê-su đã nói cách đây rất lâu với đoàn dân đông khi họ đang tự hỏi không biết Chúa sẽ làm gì cho họ. (Ma-thi-ơ 6:28) Liệu Chúa có thật sự quan tâm đến họ không? Ngài có thật sự biết rằng họ cần áo quần không? Họ tự hỏi. Và đoàn dân nín thở hồi hộp chờ xem Chúa trả lời thế nào. Tại sao Đức Chúa Giê-su lãi nói đến những hoa huệ ngoài đồng – là những loài hoa mà không ai trồng, cũng chẳng mấy ai để ý đến? Giọng nói êm dịu của Ngài lại tiếp tục: “Chúng chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ; nhưng ta phán cùng các ngươi, dẫu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như một hoa nào trong giống đó. Hỡi kẻ ít đức tin, loài cỏ ngoài đồng, là giống nay còn sống, mai bỏ vào lò, mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp thay, huống chi là các ngươi! …. Vậy, chớ lo chi hết vế ngày mai” (Ma-thi-ơ 6: 28-34).

Giờ đây, gần 2,000 năm sau, tôi vẫn còn có thể nghe được giọng nói êm ái của Ngài bên tai nhắn nhủ rằng, “Carolyn, con hãy xem những loài hoa đã mọc lên như thế nào. Đừng lo lắng nữa.”

Chẳng bao lâu sau, chúng tôi lại cất cánh để quay lại bờ và về nhà. Khi chúng tôi bay ngang qua mặt nước phẳng như gương phía dưới, những cảm giác tội lỗi xâm chiếm trong tôi. Tại sao tôi lại có suy nghĩ rằng để mình thử Chúa xem Ngài có biết tôi không? Những loài chim trời, hoa cỏ, và ngay cả những tảng đá phía bên bờ của hòn đảo đều nói lên về Đấng luôn biết và luôn chăm sóc. Chẳng phải chính Ngài đã cảm động lòng Đa-vít cách đây rất lâu để ông viết rằng: “Tôi sẽ đi đâu xa thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?... Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông, bay qua ở tại cuối cùng biển, tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi, tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi” (Thi-Thiên 139: 7-10)

Tôi không muốn trở thành người hay hồ nghi, nhưng tôi thật sự rất muốn biết. Dù vậy, tại nơi đây, nơi có những dãy núi chồng chất lên nhau tận cuối lãnh nguyên, nơi hầu như không có sự hiện diện của con người, tôi đã cảm nhận được những phút giây tuyệt vời nhất, hạnh phúc nhất mà bất cứ người con gái nào ao ước. Tôi đã cố gắng để lạc lối, nhưng tôi không thể. Tôi đã cố gắng để đặt mình vào những tình huống khó khăn, nan giải, nhưng tôi đã không thành công trong chuyện đó. Ôi, Chúa thật là Chúa nhân từ và dịu dàng thay!


"Chúa đã ở đó. Tôi đã ở đó. Chúng tôi cùng ở đó – chỉ có hai chúng tôi."
Buổi tối hôm ấy, tôi đã đi bộ thật lâu. Bầu trời chuyển dần từ xanh sang xám. Những cơn gió lồng lộng khuấy động mặt nước trên hồ. Có sự tĩnh lặng xen nhẹ vào lòng tôi. Một sự tĩnh lặng dường như muốn nhốt chặt ai đó – một sự tĩnh lặng làm cho ai đó cảm thấy như mình đang lạc đến một chốn thật xa xôi. Nó làm cho nhà cửa trở nên xám xịt, nó làm cho những cây bấc, nơi trú ẩn của những con chim lặn trở nên u ám hơn. Nó làm cho tiếng kêu của những con chim mòng biển trở nên như nghẹn lại. Liệu đây có phải là chốn cách đây không lâu tỏa ra nét đẹp lộng lẫy trên mặt hồ Ilimna hay không? Vâng, cũng là mặt hồ đó. Cũng là những con chim đó, những mảng rêu xanh đó, những ngọn núi đó. Và cái thế giới màu xám này, Chúa cũng nắm giữ trong bàn tay to lớn và nhân từ của Ngài. Tôi tư lự.

Naomi đưa tôi đi khoảng ba dăm rưỡi để đến thăm nhà của một giáo viên trong trường buổi tối hôm đó. Đó là một cô giáo rất sôi nổi, hoạt bát, chồng cô ấy đã đi đánh cá với những người khác. Các con của cô ấy, Martha và Shirley, cũng rất hoạt bát và sôi nổi như giống như mẹ chúng. “Hãy đến đây và ở lại với chúng tôi,” Trish nói “vì chồng tôi thường xuyên đi vắng, tôi ngủ ở dưới lầu, nên cô có thể ngủ ở trên lầu. Chúng tôi rất vui khi có ai đó ghe thăm, và tôi rất vui vì cô đã đến đây.”

Sự Kêu Gọi
Tôi ở lại nhà của Trish, và cô ấy chứng tỏ rằng cô là một bà mẹ trẻ, người mà tôi tin chắc rằng am hiểu tường tận về những vấn đề, thử thách, cũng như hiểu rõ những niềm vui, nỗi buồn của việc trở thành một cô giáo tại ngôi làng Inuit. Chúng tôi nói chuyện đến tận nữa đêm.
Đột nhiên, Trish đứng dậy. “chỉ còn một phút nữa là đến nữa đêm rồi” cô ấy nói, “chúng ta hãy đi xem thời tiết như thế nào.”

Màu xám đã biến mất. Phía đông bắc bây giờ là những mảng trời màu xanh. Những tảng mây màu đỏ thẫm nhắc cho chúng tôi nhớ rằng mặt trời vừa lặn cách đó không lâu, và sẽ mọc trở lại sau hai tiếng rưỡi đồng hồ nữa. Một sự yên lặng đẹp đẽ, mênh mông; bầu trời nhẹ nhàng, và thanh vắng; xa xa là những dãy núi đóng băng kỳ diệu; gần hơn một chút là tiếng chíu chit của những chú chim. Có cái gì đó trong khoảng không tĩnh lặng lúc nữa đêm này làm cho những cơn buồn ngủ tan biến hết. 

Tới khi tôi leo lên cầu thang để đi ngủ, thì những con chim sẻ đã cất tiếng hát chào bình minh. Những con chim sẽ hát vang lúc một giờ sáng trên lãnh nguyên! Tôi sẽ không ngủ. Tôi sẽ chỉ nằm đó, và lắng nghe tiếng những con chim sẻ phá tan sự tĩnh lặng của màn đêm — Con chim sẻ đó đang đậu trên cành cây vân sam cao bên cửa sổ, cạnh giường tôi. Tôi nghĩ đến cách làm sao mà Chúa có thể giữ trong tay Ngài những nét đẹp đẽ kỳ diệu này hàng thế kỷ mà Ngài không hề cảm thấy mệt mỏi. Tôi vẫn còn muốn biết thêm về tôi. Về những ế hoạch mà Chúa dành cho tôi. Liệu Ngài có thể - liệu Ngài sẽ để cho tôi biết rõ thêm một chút về kế hoạch đó không? Thế rồi, tôi đã làm một việc mà tôi không dự định sẽ làm – Tôi đã ngủ.

Khi đã ngủ, dường như tôi thấy mình đi bộ ngang qua lãnh nguyên rộng lớn mênh mông, bằng phẳng. Với ba-lô trên vai, tôi một mình bước đi và đi và đi. Không một ngôi nhà, cũng chẳng thấy bóng dáng chiếc xe nào. Tôi đã đi như thế hàng trăm dặm. Kinh ngạc bởi sự yên lặng, cô liêu, huyền bí và vĩ đại. Tôi không hề cảm thấy chút mệt mỏi nào – chỉ bước đi và đi.

Và rồi tôi nghe tiếng gọi từ đằng sau, phía bên trái mình. Đó là một giọng nói nhẹ nhàng, ngọt ngào nói rằng: “Carolyn!” tôi nhanh chóng dừng lại, quay sang phía bên trái và nhìn thấy cách xa xa, có một cái bóng đen của một Người cao khoảng 3 mét.

Thật kỳ lạ vì tôi chẳng nhìn thấy Người khi tôi đi ngang qua chỗ ấy lúc nãy. Tôi nghĩ thầm khi tôi tiến gần về phía đó. Có ánh sáng màu vàng cam lóe sáng trên bầu trời. Tôi dừng lại. Một mình. Với Đức Chúa Giê-su. Tôi kinh ngạc chờ đợi. Thật lạ lùng thay khi Chúa gọi tôi. Thật lạ lùng thay khi Chúa gọi đích danh của tôi. Có thật là tôi đang ở một mình với Ngài? Tôi đảo mắt nhìn khắp chung quanh, không có ai khác ở đó. Chỉ có Đức Chúa Giê-su. Ngài đã ở đó. Tôi ở đó. Chúng tôi ở đó cùng nhau – chỉ có hai chúng tôi mà tôi. Ngài cất tiếng nói thật nhẹ nhàng, thật khẽ, “Carolyn, Ta đã chết thay con. Ta sẽ ở cùng con cho đến tận cùng trái đất.”

Sau đó tôi thức giấc. Lúc đó là hai giờ sáng. Ngoài kia mặt trời đã lên cao và những tia nắng chiếu soi qua khung cửa kiếng. Tôi vẫn nằm lại trên giường đến 7 giờ sáng, vẫn mãi nghĩ về những lời nói khẽ của Chúa Giê-su và vẫn còn kinh ngạc vễ ý tưởng rằng Đức Chúa Giê-su đã chết thay cho tôi – và Ngài sẽ ở cùng tôi cho đến tận cùng trái đất. Tôi! Ngài đã chết cho chính tôi! Và Ngài sẽ ở cùng tôi cho đến tận cùng trái đất – châu phi, châu á, New Guinea, bất cứ nơi nào và tất cả mọi nơi Ngài cũng sẽ luôn ở cùng tôi!

Cách đây khoảng hai ngàn năm Đức Chúa Giê-su đã phán cùng những người theo Ngài, “Ta sẽ ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma-thi-ơ 28:20). Những lời nầy đã được viết ra cho tôi và cho bạn. Vậy thì tại sao tôi không tin vào điều đó?

Ngày thứ hai, chúng tôi bay về lại Anchorage. Một số người khi họ đi du lịch về, họ thường mang theo những con búp bê Eskimo hoặc những món đồ bằng ngà để làm kỷ niệm. Còn tôi, tôi mang theo hai câu nói, khắc ghi mãi trong lòng tôi suốt đời, “Carolyn, Ta đã chết thay con, và Ta sẽ luôn ở cùng con cho đến cùng trái đất.”

Thật quả là kho báu rất quý giá từ tấm lòng của Chúa dành cho tôi.


Tôi đã trải nghiệm những việc này vào tháng 8 năm 1963, khi tôi 33 tuổi. 49 năm sau đó tôi vẫn còn lấy làm kinh ngạc trước những cách mà Đấng Cứu Thế tôi đã hiện diện cùng và chăm sóc một người phụ nữ độc thân như tôi trong suốt khoảng thời gian 10 năm khi tôi ở tại Châu Phi, và đi vòng quanh thế giới 3 lần. Nếu bạn là một người phụ nữ trẻ, độc thân và bạn đang phân vân về kế hoạch của Chúa dành cho cuộc đời bạn – hãy đặt trọn niềm tin vào Đức Chúa Giê-su. Ngài sẽ chẳng bao giờ lìa bỏ bạn cũng như Ngài đã chẳng bao giờ từ bỏ tôi.

1 Tên của hầu hết các nhân vật nhắc đến trong câu chuyện đã được thay đổi để đảm bảo quyền riêng tư của họ.
2Tất cả những câu Kinh Thánh được trích dẫn từ Kinh Thánh bản quốc tế mới (tiếng Anh) có bản quyền © 1973, 1978, 1984, 2011 bởi Biblica, Inc. 




(Theo Adventistworld.org)
Chia sẻ Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment