Tại sao tôi tin vào đời sau

Không chỉ là một suy nghĩ ao ước 
 
 
Nhân loại hiện đại càng ngày càng cảm thấy như một mảnh gỗ trôi nổi trên đại dương bao la sâu thẳm. Phía sau những người đàn ông đàn bà là sự đời đời của hư không bởi sự hoàn toàn vô tình, y như việc họ xuất hiện nhiều thời đại trước đây. Cõi hư vô đời đời trải ra trước mắt sau khi họ qua khỏi cuộc đời ngắn ngủi này. Một đời sau? Không hy vọng về điều đó. Họ chỉ sống đời sau dựa vào con cái, cháu chắt, và dòng dõi mình.

Tôi tin vào một đời sau.Tôi tin rằng câu chuyện của tôi sẽ đến hồi kết khi tôi trút hơi thở cuối cùng. Tôi tin rằng cuộc đời này chỉ mới bắt đầu. Điều tốt nhất còn chưa xảy đến.

Niềm tin của tôi vào cõi đời không chỉ đơn thuần là một ao ước hay hy vọng. Điều đó đặt trên năm nền tảng.
 
Nền tảng thứ nhất: Đức Chúa Trời không thay đổi
Quá khứ của tôi không phải ngẫu nhiên, tương lai cũng thế.

Trong quyển The Sound of Music của Richard Rodgers, Maria cất lên tiếng kêu đau đớn “hư không ra bởi hư không, chưa hề có điều gì mà không hư không.” Nguyên cớ của chúng ta dội lại câu nói buồn này.” Thế giới này cùng với sự phức tạp cực kỳ về hệ sinh thái của nó, nhịp điệu các mùa, vô số dạng sống ở đáy biển sâu, trên đất liền và trên trời cao không xảy ra ngẫu nhiên. Nhân loại chúng ta với cơ thể, tâm trí, và tâm linh – chúng ta không bắt đầu ngẫu nhiên. Vũ trụ này, rộng lớn ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, những ngôi sao, hành tinh, các hạt vi lượng, các lỗ đen – nhiều hơn “hư không” biết bao nhiêu. Không thể nào hư không tạo ra nó.

Nhà vũ trụ học nổi tiếng Stephen Hawking lập luận rằng có thể được hình thành bởi trọng lực hai chiều hay Đức Chúa Trời. Nhưng điều này đưa đến câu hỏi: trọng trường đến từ đâu? Tại sao không đặt Đức Chúa Trời là nguồn của mọi sự?

Khi chúng ta nhìn về cõi đời đời ở đằng sau chúng ta, chỉ có 2 khả năng liên quan đến nguồn gốc vũ trụ: tự nhiên hay siêu nhiên. Thuyết tự nhiên cho rằng mọi thứ đã có, đang có, hay sẽ có có thể được xem là bởi sự vận hành của các luật được gắn cố định vào chính kết cấu của vũ trụ. Không có gì ngoài tự nhiên – không có phép lạ, không có Đức Chúa Trời – là cần thiết cả; tự nhiên thôi đã đủ rồi. Nhưng phương pháp này không trả lời được việc căn bản nhất về sự tồn tại của chúng ta: của vũ trụ. Tất cả bắt đầu như thế nào?

Sự phát triển thú vị trong 50 năm gần đây đã loại bỏ giải thích thuần tự nhiên về nguồn gốc bởi phần lớn các nhà thiên văn học và vũ trụ học. Những nghiên cứu của họ về khả năng có thể xảy ra dẫn họ đến kết luận rằng vũ trụ cũng được làm cho rất phù hợp về những điều kỳ lạ hết sức thiên về sự can thiệp từ một tâm trí thiêng liêng.
 
Có lẽ tấm gương nổi bật nhất về sự thay đổi suy nghĩ thiên về siêu nhiên là triết gia nổi tiếng. Trong thế kỷ 20, ông đi đầu để đại diện cho chủ nghĩa vô thần, tranh cãi một cách thuyết phục chống lại sự tồn tại của Đức Chúa Trời qua hàng loạt sách, báo, và bài diễn thuyết. Tuy nhiên, ông Flew, trong cuộc đời mình, cố gắng giữ mình mở ra với bằng chứng, và cuối cùng những bằng chứng này dẫn ông từ bỏ vị trí mà ông giữ lâu dài. Trong quyển Có một Đức Chúa Trời: Làm thế nào một người cực kỳ vô thần trên thế giới thay đổi tư tưởng [How the World’s Most Notorious Atheist Changed His Mind (HarperOne, 2007)], ông Flew kết luận rằng “những luật lệ của tự nhiên, cuộc sống với sự tổ chức thuộc mục đích luận của nó, và sự tồn tại của vũ trụ - chỉ có thể được giải thích trong ánh sáng của Sự Khôn Ngoan giải thích sự tồn tại của vũ trụ và của thế giới…[Bằng chứng] đã dẫn tôi đến việc chấp nhận sự tồn tại của một Đấng tự hữu, bất biến, vô hình, toàn năng, và toàn tri” (Trang 155).

Khi ông Flew đề cập đến “sự tổ chức có mục đích” của cuộc sống, ông có trong đầu cảm nhận về mục đích tồn tại phía dưới vũ trụ. Một Đấng Thiết Kế lắp đặt đúng chỗ và giữ nó hướng đến một mục đích. Và tôi, một phần của vũ trụ này, chia sẻ mục đích của Đấng Thiết Kế. Nguồn gốc của tôi phải phải ngẫu nhiên mà là từ Chúa. Nên sẽ có một đời sau.
 
Nền tảng thứ hai: Âm nhạc
Trong số tất cả các khả năng may rủi mà hướng chúng ta ở ngoài bản thân mình, không gì uy quyền hơn âm nhạc. Mặc dù âm nhạc có thể được dùng để nuôi dưỡng bản năng căn bản của chúng ta, sử dụng một cách đúng đắn nó đưa chúng ta đến chính ngôi của Đức Chúa Trời.
Âm nhạc thì kỳ diệu. Dầu nó không có mối liên hệ cần thiết nào đến thế giới, nó bám rễ sâu sắc vào trong bản tính con người chúng ta, thể hiện khi chúng ta còn thơ ấu. Từ lúc ban đầu, nó đã hiện ra và nằm ở trung tâm của của mọi nền văn hóa. Bác sỹ chuyên khoa thần kinh nổi tiếng Oliver Sacks gọi khả năng may rủi đối với âm nhạc là “musicophilia.” Trong quyển sách cùng tên, ông trích dẫn Charles Darwin trong câu hỏi khó về nguồn gốc âm nhạc: “Cả sự thưởng thức lẫn khả năng tạo ra các nốt nhạc đều không phải là những tài năng về sự sử dụng tối thiểu dành cho con người… chúng phải được xếp ở giữa những điều kỳ diệu nhất trong số những điều mà con người được ban cho.”1

Nếu thuyết tiến hóa không thể giải thích về tình yêu chúng ta dành cho âm nhạc, thì Kinh Thánh có thể. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng âm nhạc hiện diện từ buổi sáng thế, khi “Trong khi ấy các sao mai đồng hát hòa nhau” (Gióp 38:7). Và âm nhạc sẽ hiện diện khi cuộc thiện ác đấu tranh giữa Đấng Christ và Sa-tan cuối cùng được giải quyết. Và những người được chuộc ở mọi thời kỳ sẽ hát bài ca của Môi-se và Chiên Con, và toàn thể thiên đàng sẽ cất lên bài ca ngợi khen và cảm tạ (Khải 15: 2-4; 7:9).

Khi chúng ta sống ngoài thời gian của mình trên đất, âm nhạc có thể là bạn đồng hành thường xuyên của chúng ta, đưa chúng ta lên, làm lòng chúng ta vui mừng. William Congreve nói thẳng: “Âm nhạc có sức mê hoặc để làm dịu tâm trạng cáu kỉnh, để làm mềm đá, hay bẻ cong một cây xương xẩu.” Thậm chí khi chúng ta không thể nghe, âm nhạc không có tiếng cũng vang lên trong tai chúng ta.

Tôi không thể tưởng tượng cuộc sống thiếu vắng âm nhạc. Ân tứ thiêng liêng thì trọn vẹn đối với việc tôi là ai. Nó rung động trong tôi, bảo đảm với tôi rằng tôi là con Đức Chúa Trời và Ngài định cho tôi tồn tại đời đời trong sự hiện diện của Ngài ngập tràn giai điệu thiên đàng.
 
Nền tảng thứ ba: Sự công bình
Giống như tình yêu dành cho âm nhạc, một cảm giác về sự công bình là quan trọng bậc nhất đối với nhân loại. Một số người thiếu cảm nhận về đúng và sai, chúng ta xem họ bị bệnh tâm thần, hay thần kinh không ổn định.

Cũng như âm nhạc, sự công bình không thể được giải thích bởi ngôn từ thuần tự nhiên. Chúng ta hiểu và cảm nhận sự công bình vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời, và Chúa là công bình.

“Đấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?” Áp-ra-ham thưa cùng Chúa (Sáng 18: 25). Quả thật vậy. Nếu Chúa không thể được xem là luôn làm điều phải – nếu Ngài hay thay đổi – chúng ta gặp rắc rối to.

Sự lộn xộn về đạo đức trở nên trật tự của một ngày, với việc mọi người hành xử theo luật lệ của họ. Nhưng, như Kinh Thánh nhấn mạnh, Đức Chúa Trời là thành tín, bản tính bất biến, Đấng chúng ta có thể luôn xem là làm điều phải.

Trong thế giới băng hoại hiện tại của chúng ta, sự công bình thường treo trên đầu nó. Sự sống không công bằng. Thường thì những người có đủ tiền sẽ thoát khỏi những cáo buộc, trong khi những người nghèo khổ, người bị bỏ rơi, và người khách lạ không được đối xử công bằng. Đức Chúa Trời của cả vũ trụ, Đấng thánh, ghi chú mọi sự không công bằng. Ngài là Đấng truyền lịnh cho dân sự Ngài công bình và thành thật trong mọi việc của họ và bênh vực người nghèo, kẻ mồ côi, và người ngoại quốc (Phục 24: 17) sẽ không cho phép tình trạng về những việc “lẽ thật bị đưa lên đoạn đầu đài, còn sai lầm mãi mãi ngự trị trên ngôi” tiếp tục không chấm dứt. “vì Ngài đã chỉ định một ngày, khi Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, bởi Người Ngài đã lập” (Công vụ 17: 31).

Tôi tin vào đời sau bởi vì sự công bình đòi hỏi nó; sẽ đến một ngày tính sổ cho toàn thể nhân loại. Không phải chỉ có cảm giác tôi về sự công bình đòi hỏi không thôi đâu, mà bản chất Đức Chúa Trời là công bình và chính trực cũng đảm nhận điều này nữa. Đó là lý do tại sao tiên tri Đa-ni-ên miêu tả một cảnh tượng phiên tòa lớn trong đó “cho tới khi Đấng Thượng cổ đã đến, sự xét đoán đã ban cho các thánh của Đấng Rất Cao và thì giờ đã đến, là khi các thánh được nước làm của mình” (Đa 7: 22).
 
Nền tảng thứ tư: Những điềm báo trước về cõi đời đời
Đối với một người có đức tin thì thiên đàng giáng xuống thậm chí trong đời này và ban cho một sự nếm thử những gì chưa xảy đến. “Hãy xem Đức Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta sự yêu thương dường nào, mà cho chúng ta được xưng là con cái Đức Chúa Trời; và chúng ta thật là con cái Ngài. Ấy là vì đó mà thế gian chẳng biết chúng ta, vì họ chẳng từng biết Ngài” sứ đồ Phao-lô thốt lên.
 

Này chỉ mới bắt đầu. Điều tốt nhất còn chưa đến.
Những người nghi ngờ và không tin có thể thu thập những cuộc tranh luận họ học được để chống lại sự tồn tại của Đức Chúa Trời và đời sau, nhưng đối với chúng ta là những người chấp nhận Đức Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế và là Đức Chúa Trời, chúng chẳng là gì cả. Chúng ta có Câu Trả Lời trong chính chúng ta – tức Đức Chúa Jêsus.

Trong cùng bức thư 1 Giăng vang lên sự bảo đảm. Hết lần này đến lần khác vị sứ đồ này viết: “Chúng ta biết…Chúng ta biết… Chúng ta biết…” Niềm tin này đạt đến cao điểm khi ông đưa bức thư đến phần kết thúc:

“Chúng ta biết rằng ai sanh bởi Đức Chúa Trời, thì hẳn chẳng phạm tội; nhưng ai sanh bởi Đức Chúa Trời, thì tự giữ lấy mình, ma quỉ chẳng làm hại người được. Chúng ta biết mình thuộc về Đức Chúa Trời, còn cả thế gian đều phục dưới quyền ma quỉ. Nhưng chúng ta biết Con Đức Chúa Trời đã đến, Ngài đã ban trí khôn cho chúng ta đặng chúng ta biết Đấng chân thật, và chúng ta ở trong Đấng chân thật, là ở trong Đức Chúa Jêsus Christ, Con của Ngài. Ấy chính Ngài là Đức Chúa Trời chân thật và là sự sống đời đời” (1 Giăng 5: 18-20).

Trong đời này Chúa cho chúng ta những điềm báo về cõi đời đời rồi. Nhưng điều tốt nhất sẽ hiện ra khi Đức Chúa Jêsus trở lại và chúng ta thấy Ngài mặt đối mặt: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy” (1 Giăng 3:2).
 
Nền tảng thứ tư: Đức Chúa Jêsus
Trong số hết thảy hàng tỉ trẻ em được sinh ra trên trái đất không được nhắc đến, có một con trẻ đứng riêng ra, độc đáo. Đức Chúa Jêsus người Na-xa-rét, con trai của Ma-ri là người của mọi thời đại.

Mặc dù Đức Chúa Jêsus được sinh ra trong hoàn cảnh khiêm tốn và chết trẻ, Ngài được biết đến rộng rãi là con người có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong số những người đã từng sống. Cuộc đời phục vụ hiền lành và đầy thương xót dành cho người khác, sự dạy dỗ của Ngài, đơn giản mà sâu sắc, bình thường nhưng bất hủ, đã cảm động và tiếp tục cảm động rất nhiều người đàn ông, đàn bà chấp nhận việc Ngài tuyên bố mình là Con Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Jêsus đã sống một cuộc đời mà, mặc dù bám rễ vững chắc trên đất này, luôn nhìn xa hơn nó. Ngài nói rằng sự tồn tại của Ngài trước khi bà Ma-ri sinh Ngài ra, và Ngài sẽ trở về cùng Cha sau khi thời gian Ngài tại đây hoàn tất. Ngài nhìn thấy bản thân mình đến vì một sứ mạng: bày tỏ Đức Chúa Trời ra như thể nào và tìm để cứu kẻ hư mất. Ngài dạy dỗ và sống tin lành – tức tình yêu thương và sự tiếp nhận của Đức Chúa Trời đổ tràn trên mọi người, đặc biệt trên những người nghèo khổ và bị bỏ rơi.

Phong trào xuất phát chung quanh Đức Chúa Jêsus sớm đe dọa các thế lực tôn giáo, những người âm mưu loại bỏ Ngài. Họ có cách của họ: một buổi sáng thứ sáu mùa xuân, người ta thấy Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá La-mã. Buổi chiều Ngài chết, xác Ngài được đặt trong mộ đục trong đá.

Phong trào tưởng đã tan rã và tên Người lẽ ra bị lãng quên trong lịch sử của người Do Thái. Nhưng một điều đáng chú ý đã diễn ra: thân thể Ngài biến mất. Hòn đá lớn đã bị lăn ra ngang qua lối vào mộ và đội lính canh. Tuy vậy, thân thể Đức Chúa Jêsus biến mất, việc xảy ra trong ngày hôm đó không thể nào được giải thích thỏa đáng dựa trên nền tảng về tự nhiên được.
Rồi gần như ngay lập tức tin rằng Ngài đã sống lại bắt đầu lan truyền. Đức Chúa Jêsus xuất hiện với những môn đồ thân cận Ngài trong một số trường hợp, đôi khi là một ít, những lần khác với nhiều người. Họ thấy Ngài, họ nghe Ngài, họ rờ Ngài; Ngài cùng ăn với họ. Họ tin chắc rằng ấy chính là cùng một Chúa mà họ biết trước khi bị đóng đinh. Rồi họ đi ra kể lại câu chuyện đó từ gần đến xa, sau cùng cho đến cuối của đất: Đức Chúa Jêsus đã sống lại từ cõi chết!

Những ghi chép đầu tiên của Cơ Đốc Giáo, quyển Kinh Thánh Tân Ước vang lên với sự chắc chắn về việc Đức Chúa Jêsus chinh phục sự chết. Một vài quyển trong số những sách này do sứ đồ Phao-lô viết, ông không phải là một trong mười hai sứ đồ đầu tiên, nhưng Đức Chúa Jêsus đã hiện ra với ông vài năm sau khi Ngài sống lại. Sứ đồ Phao-lô tóm tắt tin lành này như sau: “Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh thánh” (1 Cô 15: 3,4).

Một lời diễn đạt sự cần thiết của sự sống trong Đức Chúa Jêsus. “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người” (Giăng 1: 36). “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời” (Giăng 3: 36). “ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Giăng 10: 10).

Sự sống Đức Chúa Jêsus ban cho là đời đời cả về chất lượng lẫn thời gian. Nó bắt đầu lúc này khi chúng ta “nhận Ngài” (Giăng 1: 12): chúng ta vượt qua sự chết để đến với sự sống. Và bởi vì chúng ta cột chặt với Đức Chúa Jêsus, chúng ta sẽ sống với Ngài một thời gian ngắn khi trái đất cáo chung. Ngài bảo đảm với chúng ta: “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. 26 Còn ai sống và tin ta thì không hề chết” (Giăng 11: 25, 26).

Có lẽ bạn nói: Văn tự, văn tự, văn từ! Ai biết nó có đúng hay không?

Nhưng chúng ta có thể biết. Bởi vì Đức Chúa Jêsus sống, chúng ta có thể biết Ngài. Ngài có thể là Chúa Cứu Thế, là Chúa, là Bạn của chúng ta. Hãy lắng nghe một lần nữa lời của sứ đồ Phao-lô: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi” (Ga 2: 20).

Đức Chúa Jêsus. Ngài là nguyên nhân cuối cùng và vĩ đại nhất để tôi tin vào đời sau.

Chúng ta là tạo vật bụi đất, nhưng chúng ta được tạo dựng vì cớ những ngôi sao. Sự đời đời đập trong tim chúng ta: chúng ta được Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài và Ngài gọi chúng ta về nhà Ngài.

Nếu chúng ta không về nhà được, thiên đàng sẽ đau đớn vì mất mát này. Nơi của chúng ta sẽ bị bỏ trống trong bàn tiệc lớn. Đời đời, chúng ta sẽ là một điều có thể đã diễn ra.

Các bạn thân mến, có một đời sau. Chúng ta đã nhận được giai điệu âm nhạc sâu sắc bên trong, chúng ta đã cảm nhận sức hút của nó. Đức Chúa Jêsus, là Chúa đã sống lại, kêu gọi chúng ta về nhà.
 
1 Oliver Sacks, Musicophilia: Tales of Music and the Brain (Vintage Books, 2007), p.x. 
 
 
(Theo Adventistworld.org)
Chia sẻ Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment