“Đứng lên vì Đức Chúa Trời”
Tác giả: Yevgeny Zaitsev
Ong nội Stepan Zaitsev của tôi đã phục vụ trong vai trò một mục sư Cơ Đốc Phục Lâm trong thời kỳ khó khăn của chế độ Cộng Sản. Ông cùng với hàng ngàn người khác bị kết án là “kẻ thù của nhân dân” vào năm 1937 ở điều luật 58 nổi tiếng của Stalin trong Bộ Luật Hình Sự Nga.
Ông nội tôi đã sống sót qua những sự căm ghét của Gulag, cơ quan chính phủ quản lý trại lao động khổ sai hình sự. Ông tôi chỉ sống sót với bốn người con. Cha mẹ tôi kể lại thể nào vào mùa xuân bà nội tôi đã leo lên trên đồi để tìm cỏ non cho bà và các con ăn, khi họ đói, đau khổ vì chịu thiếu dinh dưỡng thường xuyên và thiếu vi-ta-min.
Ông nội tôi đã sống sót qua những sự căm ghét của Gulag, cơ quan chính phủ quản lý trại lao động khổ sai hình sự. Ông tôi chỉ sống sót với bốn người con. Cha mẹ tôi kể lại thể nào vào mùa xuân bà nội tôi đã leo lên trên đồi để tìm cỏ non cho bà và các con ăn, khi họ đói, đau khổ vì chịu thiếu dinh dưỡng thường xuyên và thiếu vi-ta-min.
Một sự giải cứu tóm lược
Những sự bắt bớ mới
Tuy nhiên, sự phục hồi này nhóm lên một chiến dịch chống tôn giáo, vào cuối những năm 1950 trở nên lớn lao và có tổ chức. Chiến dịch lên tới đỉnh điểm trong 5 năm lãnh đạo cuối của Khrushchev từ 1959 đến 1964. Theo các nhà nghiên cứu, chiến dịch chống tôn giáo của Khrushchev rất khốc liệt, chỉ đứng sau những cuộc bách hại của Stalin vào những năm 1930.
Trong chiến dịch chống tôn giáo, nhiều nhà thờ đã bị đóng cửa, nhiều linh mục và mục sư bị bắt. Đức tin của ông nội tôi lại bị thử thách một lần nữa trong tình huống khó khăn này.
Vào cuối những năm 1950, ông nội Stepan Zaitsev của tôi cùng gia đình sống tại một thị trấn nhỏ Zyryanovsk, ở phía Đông Kazakhstan. Ông rất được người dân thị trấn tôn trọng. Tờ báo địa phương viết về ông là một người thành thật và không ích kỷ, một người làm việc không mệt mỏi, có “đôi tay vàng” và truyền thụ kinh nghiệm máy móc của ông cho những người trẻ.
Tuy nhiên, khi chiến dịch chống tôn giáo mới bắt đầu, thái độ đối với ông nội tôi thay đổi một cách đột ngột. Trong cùng tờ báo địa phương, một bài báo mới xuất hiện, trong đó ông bị nhiếc móc và phỉ báng. Đài truyền thanh thông báo rằng người dân địa phương yêu cầu lưu đày ông Zaitsev khỏi Zyryanovsk và phải bị tòa án công chúng xét xử. Khoảng 300 người đến dự phiên tòa.
Khi ông Stepan Zaitsev được dẫn vào để lắng nghe, các vị thẩm phán gặp ông trong một phòng biệt lập, chào đón ông một cách lịch sự và khuyên ông chối bỏ “thuốc phiện tôn giáo,” rồi hứa rằng sẽ đóng vụ án ông lại và trả tự do cho ông.
“Ông có thể có một cái nghề,” họ nói. “Ông là người đứng đầu. Ông chỉ nên sống như tất cả mọi người sống, nhưng thay vào đó, ông tin vào một dạng nào đó về Đức Chúa Trời. Ông hủy hoại cuộc đời ông cũng như gia đình ông. Ông hãy có ý thức trước khi quá muộn: hãy công khai chối bỏ đức tin vào Đức Chúa Trời của ông, chúng tôi sẽ tin ông và ông sẽ được tự do.”
Ông nội tôi trầm tĩnh nhìn họ, lắng nghe bài diễn thuyết xảo trá của họ. Đến cuối cùng ông chỉ nói một điều: “Hãy làm những gì các ông dự định làm. Các ông đừng phí thời gian của mình nữa, tôi sẽ không bao giờ chối bỏ Đức Chúa Trời mình đâu.”
Ông Stepan Zaitsev được đưa đến đại sảnh và người khởi tố bắt đầu bài nói chuyện của mình. Ông cáo gian ông nội tôi về việc đã hủy hoại gia đình Xô Viết bằng sự dạy dỗ của ông, phát tán thành kiến tôn giáo, làm băng hoại thanh niên, không chịu làm việc và sống ký sinh bằng cách lừa người ta bởi việc sống nhờ tiền của họ. Trong bài nói chuyện cất lên những tiếng kêu căm phẫn – “Không có chỗ cho những người như thế trong Liên Bang Xô Viết! Chúng ta nên bắn họ!” từ những người được chuẩn bị một cách đặc biệt mà có lẽ chưa bao giờ biết ông Stepan Zaitsev.
Sau loạt cáo gian dồn dập, phỉ báng, nhiếc móc, cùng với tiếng chống đối từ phía khán giả, cơ hội nói chuyện cuối cùng cũng được cho bị cáo.
Trong chiến dịch chống tôn giáo, nhiều nhà thờ đã bị đóng cửa, nhiều linh mục và mục sư bị bắt. Đức tin của ông nội tôi lại bị thử thách một lần nữa trong tình huống khó khăn này.
Vào cuối những năm 1950, ông nội Stepan Zaitsev của tôi cùng gia đình sống tại một thị trấn nhỏ Zyryanovsk, ở phía Đông Kazakhstan. Ông rất được người dân thị trấn tôn trọng. Tờ báo địa phương viết về ông là một người thành thật và không ích kỷ, một người làm việc không mệt mỏi, có “đôi tay vàng” và truyền thụ kinh nghiệm máy móc của ông cho những người trẻ.
Tuy nhiên, khi chiến dịch chống tôn giáo mới bắt đầu, thái độ đối với ông nội tôi thay đổi một cách đột ngột. Trong cùng tờ báo địa phương, một bài báo mới xuất hiện, trong đó ông bị nhiếc móc và phỉ báng. Đài truyền thanh thông báo rằng người dân địa phương yêu cầu lưu đày ông Zaitsev khỏi Zyryanovsk và phải bị tòa án công chúng xét xử. Khoảng 300 người đến dự phiên tòa.
Khi ông Stepan Zaitsev được dẫn vào để lắng nghe, các vị thẩm phán gặp ông trong một phòng biệt lập, chào đón ông một cách lịch sự và khuyên ông chối bỏ “thuốc phiện tôn giáo,” rồi hứa rằng sẽ đóng vụ án ông lại và trả tự do cho ông.
“Ông có thể có một cái nghề,” họ nói. “Ông là người đứng đầu. Ông chỉ nên sống như tất cả mọi người sống, nhưng thay vào đó, ông tin vào một dạng nào đó về Đức Chúa Trời. Ông hủy hoại cuộc đời ông cũng như gia đình ông. Ông hãy có ý thức trước khi quá muộn: hãy công khai chối bỏ đức tin vào Đức Chúa Trời của ông, chúng tôi sẽ tin ông và ông sẽ được tự do.”
Ông nội tôi trầm tĩnh nhìn họ, lắng nghe bài diễn thuyết xảo trá của họ. Đến cuối cùng ông chỉ nói một điều: “Hãy làm những gì các ông dự định làm. Các ông đừng phí thời gian của mình nữa, tôi sẽ không bao giờ chối bỏ Đức Chúa Trời mình đâu.”
Ông Stepan Zaitsev được đưa đến đại sảnh và người khởi tố bắt đầu bài nói chuyện của mình. Ông cáo gian ông nội tôi về việc đã hủy hoại gia đình Xô Viết bằng sự dạy dỗ của ông, phát tán thành kiến tôn giáo, làm băng hoại thanh niên, không chịu làm việc và sống ký sinh bằng cách lừa người ta bởi việc sống nhờ tiền của họ. Trong bài nói chuyện cất lên những tiếng kêu căm phẫn – “Không có chỗ cho những người như thế trong Liên Bang Xô Viết! Chúng ta nên bắn họ!” từ những người được chuẩn bị một cách đặc biệt mà có lẽ chưa bao giờ biết ông Stepan Zaitsev.
Sau loạt cáo gian dồn dập, phỉ báng, nhiếc móc, cùng với tiếng chống đối từ phía khán giả, cơ hội nói chuyện cuối cùng cũng được cho bị cáo.
Đức tin là tội duy nhất của ông tôi
“Tôi bắt đầu làm việc từ khi lên 12 tuổi,” ông nội tôi bắt đầu, “và đã làm việc cho đến ngày hôm nay. Gần đây, báo chí viết rằng tôi có “đôi bàn tay vàng,” và đã truyền thụ kinh nghiệm của mình lại cho những người học nghề, rằng tôi thân thiện, lịch sự và là tấm gương sáng. Vậy thì tại sao hôm nay tôi lại đứng như một tội phạm trước mặt quý vị? Tôi đã làm sai chuyện gì và làm sai với ai?
“Không phải sự thật tội của tôi là một tín đồ sao? Phải, tôi là một tín đồ: tôi tin vào Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo Hóa của trời và đất, và tin vào Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Thế, Đấng ban sự sống của Ngài cho tôi và cho tội tôi. Tôi nhận biết sự thánh khiết của luật pháp luân lý của Đức Chúa Trời, thể hiện ra trong Mười Điều Răn và cố gắng sống gìn giữ chúng.
“Các ông có đề cập tới việc trước đây tôi bị kết án. Phải, tôi bị kết án vì đức tin mình. Tôi đã ở tù 10 năm và sau đó là 2 năm bị lưu đày. Ngày nay, tôi đứng trước mặt quý vị, và tội duy nhất của tôi là niềm tin của mình. Tôi sẵn sàng chịu đau đớn vì đức tin tôi một lần nữa, nhưng tôi sẽ không chối bỏ Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Thế của mình.”
Sự im lặng bao trùm căn phòng trong một lát. Người ta bị sốc bởi sự đối đáp của người bị kết án. Tuy nhiên, sự im lặng tạm thời này không kéo dài lâu. Cơn mưa cáo buộc, la hét, và đe dọa lại đổ xuống nữa.
Sau một cuộc họp ngắn, phiên tòa tuyên án: một cuộc lưu đày 5 năm khỏi vùng Đông Kazakhstan.
“Không phải sự thật tội của tôi là một tín đồ sao? Phải, tôi là một tín đồ: tôi tin vào Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo Hóa của trời và đất, và tin vào Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Thế, Đấng ban sự sống của Ngài cho tôi và cho tội tôi. Tôi nhận biết sự thánh khiết của luật pháp luân lý của Đức Chúa Trời, thể hiện ra trong Mười Điều Răn và cố gắng sống gìn giữ chúng.
“Các ông có đề cập tới việc trước đây tôi bị kết án. Phải, tôi bị kết án vì đức tin mình. Tôi đã ở tù 10 năm và sau đó là 2 năm bị lưu đày. Ngày nay, tôi đứng trước mặt quý vị, và tội duy nhất của tôi là niềm tin của mình. Tôi sẵn sàng chịu đau đớn vì đức tin tôi một lần nữa, nhưng tôi sẽ không chối bỏ Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Thế của mình.”
Sự im lặng bao trùm căn phòng trong một lát. Người ta bị sốc bởi sự đối đáp của người bị kết án. Tuy nhiên, sự im lặng tạm thời này không kéo dài lâu. Cơn mưa cáo buộc, la hét, và đe dọa lại đổ xuống nữa.
Sau một cuộc họp ngắn, phiên tòa tuyên án: một cuộc lưu đày 5 năm khỏi vùng Đông Kazakhstan.
Bị lưu đày nhưng không bị lãng quên
Một thời kỳ đau đớn khó khăn bắt đầu trong cuộc đời của ông nội tôi và cả gia đình. Sau một vài tháng ở trong những nhà tù khác nhau, ông nội tôi bị đưa đến một ngôi làng xa xôi được gọi là Nikolaevka ở khu vực Ubaganskaya của miền Bắc Kazakhstan. Ở tại đó, vào ngày 8 tháng 4 năm 1960, ông bị lưu hồ sơ của một người bị lưu đày.
Khi chủ tịch nông trại tập thể địa phương biết được lý do tại sao ông Stepan Zaitsev bị cáo buộc, ông đã kêu lên, “Chúng ta không cần một kẻ cuồng tín, một kẻ biếng nhác; ông ta chỉ quấy nhiễu thôi.” Tuy nhiên, sau này ông đã hoàn toàn thay đổi tư tưởng của mình và bị cáo buộc rằng trong nông trại của ông gồm có “những người biếng nhác” như thế, ông sớm có mặt trong tất cả các phiên tòa trong vùng.
Gần đây tôi viếng thăm nơi ông nội tôi bị lưu đày. Ngôi làng đã thay đổi so với hồi đó, vì vậy thật khó để xác định nơi cư ngụ của ông. Hầu hết những cư dân bị lưu đày trong vùng đất “Chúa bỏ quên” ấy đã phân tán ra nhiều năm rồi. Tôi cố hỏi thăm dân làng xem họ có biết ông Stepan Zaitsev không. Không ai biết cả, chẳng có gì lạ, từ đó đến nay đã trải qua gần 2 thế hệ rồi còn gì. Cuối cùng tôi cũng tìm được một cặp vợ chồng già còn nhớ về gia đình Zaitsev và chia sẻ một câu chuyện thú vị.
Đôi vợ chồng ấy còn trẻ khi bị lưu đày, nhưng họ vẫn còn nhớ thể nào vào một buổi tối khi họ không biết bất kỳ ai và đang đói, bà nội tôi đã mang cho họ một ổ bánh mì mới được nướng tại nhà. Hành động nhân từ và thương xót này được bày tỏ ra trong một hoàn cảnh mà người ta chỉ nghĩ đến bản thân và cố gắng sống sót trong những điều kiện khắc nghiệt đã đọng lại mãi mãi trong tâm trí họ.
Người chồng chỉ tôi thấy nơi trước đây ông bà nội tôi bị lưu đày. Không có một mô đất nào để xác định, nhưng ông chỉ một nơi chính xác ở chỗ một cây dương.
Đã vào cuối thu nên lá rụng gần hết. “Tại đây, là nơi mà họ ở, chỗ cái cây mọc lên,” người đàn ông già nói.
Cái cây này có lẽ là ký ức rõ nhất dành cho những ai bị bỏ trên thảo nguyên xa xôi trong một quãng của cuộc đời họ. Cây thay lá mỗi năm, chỉ về khả năng sinh tồn không gì hủy diệt được và khích lệ những ai dựa trên những nguyên tắc và đức tin này trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Khi chủ tịch nông trại tập thể địa phương biết được lý do tại sao ông Stepan Zaitsev bị cáo buộc, ông đã kêu lên, “Chúng ta không cần một kẻ cuồng tín, một kẻ biếng nhác; ông ta chỉ quấy nhiễu thôi.” Tuy nhiên, sau này ông đã hoàn toàn thay đổi tư tưởng của mình và bị cáo buộc rằng trong nông trại của ông gồm có “những người biếng nhác” như thế, ông sớm có mặt trong tất cả các phiên tòa trong vùng.
Gần đây tôi viếng thăm nơi ông nội tôi bị lưu đày. Ngôi làng đã thay đổi so với hồi đó, vì vậy thật khó để xác định nơi cư ngụ của ông. Hầu hết những cư dân bị lưu đày trong vùng đất “Chúa bỏ quên” ấy đã phân tán ra nhiều năm rồi. Tôi cố hỏi thăm dân làng xem họ có biết ông Stepan Zaitsev không. Không ai biết cả, chẳng có gì lạ, từ đó đến nay đã trải qua gần 2 thế hệ rồi còn gì. Cuối cùng tôi cũng tìm được một cặp vợ chồng già còn nhớ về gia đình Zaitsev và chia sẻ một câu chuyện thú vị.
Đôi vợ chồng ấy còn trẻ khi bị lưu đày, nhưng họ vẫn còn nhớ thể nào vào một buổi tối khi họ không biết bất kỳ ai và đang đói, bà nội tôi đã mang cho họ một ổ bánh mì mới được nướng tại nhà. Hành động nhân từ và thương xót này được bày tỏ ra trong một hoàn cảnh mà người ta chỉ nghĩ đến bản thân và cố gắng sống sót trong những điều kiện khắc nghiệt đã đọng lại mãi mãi trong tâm trí họ.
Người chồng chỉ tôi thấy nơi trước đây ông bà nội tôi bị lưu đày. Không có một mô đất nào để xác định, nhưng ông chỉ một nơi chính xác ở chỗ một cây dương.
Đã vào cuối thu nên lá rụng gần hết. “Tại đây, là nơi mà họ ở, chỗ cái cây mọc lên,” người đàn ông già nói.
Cái cây này có lẽ là ký ức rõ nhất dành cho những ai bị bỏ trên thảo nguyên xa xôi trong một quãng của cuộc đời họ. Cây thay lá mỗi năm, chỉ về khả năng sinh tồn không gì hủy diệt được và khích lệ những ai dựa trên những nguyên tắc và đức tin này trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Yevgeny Vladimirovich Zaitsev là hiệu trưởng của Trường Cao Đẳng Nhân Văn và Kinh Tế thuộc Trường Đại Học Cơ Đốc Phục Lâm Zaoksky. Ông có học vị Tiến Sỹ Thần Học và cũng là một Y sĩ. Ông và vợ mình là Valentina có ba con đã lớn.
(Theo Adventistworld.org)
Blogger Comment
Facebook Comment