Tác giả: Jo Ann Davidson
Tín điều về Đức Chúa Trời ba Ngôi là một trong những sự dạy dỗ đòi hỏi khắt khe nhất trong Kinh Thánh. Cơ Đốc Giáo là tôn giáo thế giới duy nhất khẳng định như vậy. Giáo lý Ba Ngôi thì thật sự đặc trưng của đức tin Cơ Đốc, quan trọng bởi vì nó liên hệ đến Đức Chúa Trời là ai, Ngài giống điều gì, và Ngài làm việc như thế nào. Cơ Đốc Nhân tin rằng giáo lý này cần thiết để thực hiện sự công bình đối với chứng cớ Kinh Thánh, nguồn căn bản của kiến thức chúng ta về Đức Chúa Trời. Chúng ta phải nói đến Đức Chúa Trời theo từ ngữ Ngài dùng. Chứng cớ Kinh Thánh có ba khía cạnh: (a) chỉ có một Đức Chúa Trời; (b) ba trong một và (c) Ba Ngôi là Đức Chúa Trời.
Chỉ có một Đức Chúa Trời
Cơ Đốc Giáo nổi lên từ người Hê-bơ-rơ, những người thờ độc thần một cách nghiêm khắc (vẫn còn giữ đến ngày nay). Các tác giả trong Kinh Cựu Ước đề cập đến điều này, đôi khi trích dẫn Đức Chúa Trời trực tiếp. Mười Điều Răn bắt đầu với câu tuyên bố thánh: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là nhà nô lệ. Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác” (Xuất 2): 2, 3).
Phục Truyền Luật Lệ Ký 6: 4 chứa đựng một lời khẳng định độc thần dứt khoát, đầu tiên được nhấn mạnh trong một thế giới đa thần: “Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai.”
Kinh Thánh Tân Ước tiếp tục quan điểm trong Cựu Ước, như sứ đồ Phao-lô (1 Cô 8: 4) và sứ đồ Gia-cơ. Vậy thì điều gì khiến những người Do Thái độc thần này tuyên bố tín điều về Đức Chúa Trời ba ngôi? Đó chính là chứng cớ trong kinh thánh về Ba Ngôi thánh.
Phục Truyền Luật Lệ Ký 6: 4 chứa đựng một lời khẳng định độc thần dứt khoát, đầu tiên được nhấn mạnh trong một thế giới đa thần: “Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai.”
Kinh Thánh Tân Ước tiếp tục quan điểm trong Cựu Ước, như sứ đồ Phao-lô (1 Cô 8: 4) và sứ đồ Gia-cơ. Vậy thì điều gì khiến những người Do Thái độc thần này tuyên bố tín điều về Đức Chúa Trời ba ngôi? Đó chính là chứng cớ trong kinh thánh về Ba Ngôi thánh.
Ba trong một
Đức Chúa Trời ngụ ý về Ngài cả “Ngài” lẫn “Chúng Ta.” Trong Cựu Ước hình thức số nhiều của một từ của nhiều danh từ dành cho Đức Chúa Trời (’elohim) thì có số lượng. “Chúng ta hãy làm nên loài người theo hình chúng ta và theo tượng chúng ta.” Số nhiều xuất hiện cả với động từ “Chúng ta hãy làm” và tiếp vĩ ngữ sở hữu cách “Của chúng ta” (Sáng 1: 26; 11: 7). Tiên tri Ê-sai, trong sự hiện thấy, nghe Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ sai ai đi, ai sẽ đi cho Chúng Ta?” (Ê-sai 6: 8).
Trong Sáng Thế Ký 2: 24 đàn ông và đàn bà phải trở nên một (’echad), một sự hiệp nhất của hai chủ thể biệt lập. Đáng nói là, cũng từ này được dùng chỉ về Đức Chúa Trời trong Phục 6: 4. Hôn nhân và bản tính Đức Chúa Trời đều được miêu tả như là sự hiệp nhất số nhiều.
Ba Ngôi Thánh thường được liên kết với nhau (Ê-sai 42:1; 61:1,2; 63:8-11). Thiên sứ bảo với bà Mary rằng con bà sẽ được gọi là thánh vì Đức Thánh Linh sẽ đến trên bà (Lu-ca 1: 35). Tại lễ báp-tem của Đức Chúa Jêsus (Mat 3: 16, 17) Ba Ngôi Thánh hiện diện. Đức Chúa Jêsus liên kết các phép lạ của Ngài với quyền năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời (Mat 12: 28). Bởi vì Đại Mạng Lịnh, các vị sứ đồ mới được báp-tem trong “danh” số ít của Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh (Mat 28: 19).
Bằng chứng rõ rệt có thể được tìm thấy trong phúc âm Giăng. Đức Chúa Jêsus tuyên bố: Con được Cha sai (14: 24), đến từ Ngài (16:28). Đức Thánh Linh được Cha ban (14: 16), được Cha gởi đến (14: 26) và xuất phát từ Cha (15: 26). Con cầu nguyện cho sự đến của Đức Thánh Linh (14: 16). Chức vụ Đức Thánh Linh tiếp tục chức vụ của Đức Chúa Con, nhắc lại những gì Con đã phán (14:26), làm chứng về Con (15: 26), tuyên những điều Ngài đã nghe từ Con, làm vinh hiển Con (16: 13, 14). Đức Chúa Jêsus cầu nguyện hầu cho các sứ đồ Ngài có thể là một như Ngài và Cha là một (17: 21).
Trong Sáng Thế Ký 2: 24 đàn ông và đàn bà phải trở nên một (’echad), một sự hiệp nhất của hai chủ thể biệt lập. Đáng nói là, cũng từ này được dùng chỉ về Đức Chúa Trời trong Phục 6: 4. Hôn nhân và bản tính Đức Chúa Trời đều được miêu tả như là sự hiệp nhất số nhiều.
Ba Ngôi Thánh thường được liên kết với nhau (Ê-sai 42:1; 61:1,2; 63:8-11). Thiên sứ bảo với bà Mary rằng con bà sẽ được gọi là thánh vì Đức Thánh Linh sẽ đến trên bà (Lu-ca 1: 35). Tại lễ báp-tem của Đức Chúa Jêsus (Mat 3: 16, 17) Ba Ngôi Thánh hiện diện. Đức Chúa Jêsus liên kết các phép lạ của Ngài với quyền năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời (Mat 12: 28). Bởi vì Đại Mạng Lịnh, các vị sứ đồ mới được báp-tem trong “danh” số ít của Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh (Mat 28: 19).
Bằng chứng rõ rệt có thể được tìm thấy trong phúc âm Giăng. Đức Chúa Jêsus tuyên bố: Con được Cha sai (14: 24), đến từ Ngài (16:28). Đức Thánh Linh được Cha ban (14: 16), được Cha gởi đến (14: 26) và xuất phát từ Cha (15: 26). Con cầu nguyện cho sự đến của Đức Thánh Linh (14: 16). Chức vụ Đức Thánh Linh tiếp tục chức vụ của Đức Chúa Con, nhắc lại những gì Con đã phán (14:26), làm chứng về Con (15: 26), tuyên những điều Ngài đã nghe từ Con, làm vinh hiển Con (16: 13, 14). Đức Chúa Jêsus cầu nguyện hầu cho các sứ đồ Ngài có thể là một như Ngài và Cha là một (17: 21).
Sứ đồ Phao-lô cũng nói về Đức Chúa Trời ba ngôi, liên hệ đến sự cứu rỗi trong Ba Ngôi (2 Cô 1: 21, 22). Hình thức cũng như nội dung của phần ông viết liên kết với niềm tin của ông trong sách Rô-ma: sự xét đoán của Đức Chúa Trời trên mọi người (1: 18- 3: 20); việc được tha tội nhờ đức tin trong Đấng Christ (3:21 – 8: 1); cuộc đời trong Đức Thánh Linh (8: 2-30). Sứ đồ Phao-lô cũng bao gồm những điều này trong lời chúc phước của ông: “Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu thương của Đức Chúa Trời, và sự giao thông của Đức Thánh Linh ở với anh em hết thảy” (2 Cô 13: 13). Những sự diễn đạt có công thức tương tự cũng xuất hiện trong các thư tín của Phi-e-rơ và Giu-đe (1 Phi-e-rơ 1: 1,2; Giu-đe 20, 21)
Đức Chúa Trời trong Ba Thân Vị
Thân vị Cha thì không bao giờ được bàn cãi. Đức Chúa Jêsus nhắc đến Cha là Đức Chúa Trời (Mat 6: 26-30). Sứ đồ Phao-lô nói về thân vị Đức Chúa Jêsus (Phil. 2:6; Col. 1:10-20). Đối với Phao-lô, một người Do Thái được đào tạo trong Do Thái giáo khắt khe, đây là một sự tin chắc lạ lùng về thân vị trọn vẹn của Đấng Christ. Sách Hê-bơ-rơ có vài câu tuyên bố về thân vị của Đức Chúa Con (Hê. 1; 4:14-16; 7:20–8:6).
Sự nhận biết bản thân của chính Đức Chúa Jêsus bao gồm việc tuyên bố tha thứ tội. Người Do Thái biết rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể tha thứ tội, cáo buộc Đức Chúa Jêsus phạm thượng. Ngài tuyên bố các thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng là của Ngài (Lu 12:8, 9; 15:10; Mat. 13:41). Ở tại phiên tòa, Đức Chúa Jêsus bị cáo buộc vì xưng mình là Con Đức Chúa Trời. Đây là là một cơ hội quan trọng để đính chính nếu như Đức Chúa Jêsus không xem Ngài là Đức Chúa Trời. Nhưng Ngài đã không làm thế, thay vào đó Ngài nhấn mạnh thân vị của mình. Thầy tế lễ thượng phẩm hiểu, tuyên bố Chúa Jêsus chết (Mat 26: 63-66). Sau khi sống lại, sứ đồ Thô-ma gọi Đức Chúa Jêsus là “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!” (Giăng 20: 28). Đức Chúa Jêsus đã không từ chối danh xưng hay sự thờ phượng, mặc dù xuyên suốt Kinh Thánh, con người và thiên sứ đúng đắn từ chối thờ phượng (Công vụ 14:8-18; Khải. 19:6).
Đức Thánh Linh được xác định là Đức Chúa Trời, một thân vị trong Ba Ngôi, với danh xưng “thánh” thường được kèm theo. Ngài làm công việc của Đức Chúa Trời: Ngài ngự trong lòng những người tin, như Đấng Christ làm (Ga. 2:20; Cô. 1:27), soi sáng (Ê-phê 1: 17, 18), tái sinh (Giăng 3: 5-8), dẫn vào sự thánh khiết (Rô 8: 14; Ga 5: 16-18); ban sự bảo đảm (Rô 8: 16), và ban ân tứ cho chức vụ (1 Cô 12: 4-11).
Đức Chúa Jêsus phán rằng Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời ở trên Ngài, xức dầu Ngài để giảng (Lu-ca 4: 18); để Ngài nhờ Linh của Đức Chúa Trời mà đuổi quỷ (Mat 12: 28), và đề cho Đức Thánh Linh, Đấng Mưu Luận sẽ đảm nhận công việc Ngài sau khi Ngài đi khỏi (Giăng 14: 16). Khi A-na-nia và Sa-phia-ra giữ lại một phần tiền thu được từ việc bán tài sản của họ, sứ đồ Phi-e-rơ nhắc nhở họ rằng họ rằng dối Đức Thánh Linh tức là dối Đức Chúa Trời (Công vụ 5: 3, 4).
Ba Ngôi thánh bình đẳng nhưng không đồng nhất. Không có thứ bậc hay kém quan trọng được thừa nhận bởi thứ tự không thể thay đổi trong sự trình bày của tên các Đấng ra (1 Cô 12:4-6; 2 Cô. 13:14; Êph. 4:4-6). Cả Ba đều liên quan đến sự cứu rỗi của chúng ta. Ông Thomas Oden thì đúng: “Nếu Đức Chúa Trời chỉ là một ngôi, không thể nói rằng Đức Chúa Trời vừa là Đấng sai vừa là Đấng bị sai; rằng Đức Chúa Trời vừa ban hành luật pháp vừa tuân thủ luật pháp; rằng Đức Chúa Trời vừa dâng của lễ chuộc tội vừa nhận nó; rằng Đức Chúa Trời vừa chối bỏ tội lỗi vừa dâng hy sinh cho nó.”1
Những nhận xét cẩn thận về Đức Chúa Trời ba ngôi có thể đến chỉ từ một tấm lòng và tâm trí được đào tạo trong sự khiêm nhường. Nói một cách thỏa đáng về Đức Chúa Trời là một nhiệm vụ làm nản chí. Kinh Thánh phải là nguồn quan trọng nhất về hiểu biết của chúng ta dành cho Ngài. Các Cơ Đốc Nhân thể hiện sự trông cậy đã được công khai thú nhận của họ vào Kinh Thánh, vốn chứa đựng nhiều lời khẳng định về thân vị của Ba Ngôi thánh. “Sự hình thành lịch sử của Ba Ngôi….tìm cách để định nghĩa và giữ an toàn cho sự kỳ diệu này (không giải thích nó; nó vượt quá chúng ta), và nó chạm với chúng ta với có lẽ là tư tưởng khó nhất mà tâm trí con người chưa bao giờ được yêu cầu để hiểu cả. Thật không dễ; nhưng đây là sự thật.”2
Sự nhận biết bản thân của chính Đức Chúa Jêsus bao gồm việc tuyên bố tha thứ tội. Người Do Thái biết rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể tha thứ tội, cáo buộc Đức Chúa Jêsus phạm thượng. Ngài tuyên bố các thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng là của Ngài (Lu 12:8, 9; 15:10; Mat. 13:41). Ở tại phiên tòa, Đức Chúa Jêsus bị cáo buộc vì xưng mình là Con Đức Chúa Trời. Đây là là một cơ hội quan trọng để đính chính nếu như Đức Chúa Jêsus không xem Ngài là Đức Chúa Trời. Nhưng Ngài đã không làm thế, thay vào đó Ngài nhấn mạnh thân vị của mình. Thầy tế lễ thượng phẩm hiểu, tuyên bố Chúa Jêsus chết (Mat 26: 63-66). Sau khi sống lại, sứ đồ Thô-ma gọi Đức Chúa Jêsus là “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!” (Giăng 20: 28). Đức Chúa Jêsus đã không từ chối danh xưng hay sự thờ phượng, mặc dù xuyên suốt Kinh Thánh, con người và thiên sứ đúng đắn từ chối thờ phượng (Công vụ 14:8-18; Khải. 19:6).
Đức Thánh Linh được xác định là Đức Chúa Trời, một thân vị trong Ba Ngôi, với danh xưng “thánh” thường được kèm theo. Ngài làm công việc của Đức Chúa Trời: Ngài ngự trong lòng những người tin, như Đấng Christ làm (Ga. 2:20; Cô. 1:27), soi sáng (Ê-phê 1: 17, 18), tái sinh (Giăng 3: 5-8), dẫn vào sự thánh khiết (Rô 8: 14; Ga 5: 16-18); ban sự bảo đảm (Rô 8: 16), và ban ân tứ cho chức vụ (1 Cô 12: 4-11).
Đức Chúa Jêsus phán rằng Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời ở trên Ngài, xức dầu Ngài để giảng (Lu-ca 4: 18); để Ngài nhờ Linh của Đức Chúa Trời mà đuổi quỷ (Mat 12: 28), và đề cho Đức Thánh Linh, Đấng Mưu Luận sẽ đảm nhận công việc Ngài sau khi Ngài đi khỏi (Giăng 14: 16). Khi A-na-nia và Sa-phia-ra giữ lại một phần tiền thu được từ việc bán tài sản của họ, sứ đồ Phi-e-rơ nhắc nhở họ rằng họ rằng dối Đức Thánh Linh tức là dối Đức Chúa Trời (Công vụ 5: 3, 4).
Ba Ngôi thánh bình đẳng nhưng không đồng nhất. Không có thứ bậc hay kém quan trọng được thừa nhận bởi thứ tự không thể thay đổi trong sự trình bày của tên các Đấng ra (1 Cô 12:4-6; 2 Cô. 13:14; Êph. 4:4-6). Cả Ba đều liên quan đến sự cứu rỗi của chúng ta. Ông Thomas Oden thì đúng: “Nếu Đức Chúa Trời chỉ là một ngôi, không thể nói rằng Đức Chúa Trời vừa là Đấng sai vừa là Đấng bị sai; rằng Đức Chúa Trời vừa ban hành luật pháp vừa tuân thủ luật pháp; rằng Đức Chúa Trời vừa dâng của lễ chuộc tội vừa nhận nó; rằng Đức Chúa Trời vừa chối bỏ tội lỗi vừa dâng hy sinh cho nó.”1
Những nhận xét cẩn thận về Đức Chúa Trời ba ngôi có thể đến chỉ từ một tấm lòng và tâm trí được đào tạo trong sự khiêm nhường. Nói một cách thỏa đáng về Đức Chúa Trời là một nhiệm vụ làm nản chí. Kinh Thánh phải là nguồn quan trọng nhất về hiểu biết của chúng ta dành cho Ngài. Các Cơ Đốc Nhân thể hiện sự trông cậy đã được công khai thú nhận của họ vào Kinh Thánh, vốn chứa đựng nhiều lời khẳng định về thân vị của Ba Ngôi thánh. “Sự hình thành lịch sử của Ba Ngôi….tìm cách để định nghĩa và giữ an toàn cho sự kỳ diệu này (không giải thích nó; nó vượt quá chúng ta), và nó chạm với chúng ta với có lẽ là tư tưởng khó nhất mà tâm trí con người chưa bao giờ được yêu cầu để hiểu cả. Thật không dễ; nhưng đây là sự thật.”2
1Thomas Oden, The Word of Life (San Francisco: Harper & Row, 1989), p. 77.
2J. I. Packer, Concise Theology: A Guide to Historical Christian Beliefs (Wheaton, Ill.: Tyndale House, 1993), p. 40. (Italics supplied.)
2J. I. Packer, Concise Theology: A Guide to Historical Christian Beliefs (Wheaton, Ill.: Tyndale House, 1993), p. 40. (Italics supplied.)
Ông Jo Ann Davidson, Ph.D., là giáo sư thần học của Thần Học Viện Cơ Đốc Phục Lâm, Đại Học Andrews, Hoa Kỳ.
(Theo Adventistworld.org)
Blogger Comment
Facebook Comment