Tác giả Allan R. Handysides and Peter N. Landless
Dường như có quá nhiều bị một cơn đột quỵ, và tôi lo lắng vì vợ tôi có một vài cơn thiếu máu cục bộ tạm thời- những cơn này có thể báo trước một cơn đột quỵ. Chúng tôi nên làm gì đây?
Một cơn đột quỵ xảy ra nơi có sự gián đoạn việc cung cấp máu lên não do hệ thống này bị hư hại. Cơn đột quỵ có thể mãn tính hoặc dẫn đến tử vong.
Hầu hết đột quỵ xảy ra ở những người có chứng tăng huyết áp hay trong một gia đình có bệnh sử đột quỵ. Những dạng đột quỵ khác có thể liên quan đến chứng huyết khối hoặc sự nghẽn mạch (một cục máu di chuyển tới não). Một cơn đột quỵ xuất huyết xảy ra khi một mạch máu nổ ra và chảy máu vào não vì bị hư hại. Một người với những triệu chứng báo hiệu một cơn đột quỵ nên chú ý về mặt y học ngay lập tức, việc chẩn đoán có thể cho phép những tiêu chuẩn đánh giá khẩn cấp nhằm giảm thiểu sự nguy hiểm của cơn đột quỵ.
Việc phòng ngừa ở những nơi có thể thì tốt hơn.
Đối với người Cơ Đốc Phục Lâm, trong vòng những người được xếp là xem thường thuốc men, chúng ta cần nhận ra rằng những sự nghiên cứu cẩn thận cho thấy rằng việc dùng thuốc tăng huyết áp giảm nguy cơ bị đột quỵ 20 phần trăm. Việc dùng những chất ức chế enzim làm thay đổi kích thích tố tăng tăng huyết áp (ACE) xuất hiện để có một lợi ích được thêm vào và độc lập. Tôi nhấn mạnh ở điểm này không phải vì nó là đề xuất quan trọng nhất mà nó có thể là điểm dính liền chủ yếu đối với một số người, và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Rõ ràng là những ích lợi của việc rèn luyện và ăn uống ít mỡ và na-tri đóng một vai trò to lớn. Việc tránh hút thuốc và uống rượu cũng làm giảm nguy cơ đột quỵ. Trong khi thuốc men có thể giảm thiểu nguy cơ đột quỵ 22 phần trăm, thì một lối sống không lành mạnh làm tăng nguy cơ gấp đôi. Những người ăn trái cây và rau 5 lần mỗi ngày, tập luyện thường xuyên, tránh thuốc là và hạn chế uống rượu bị đột quỵ ít hơn phân nửa so với những người khác.
Việc kiểm tra sức khỏe toàn diện thì quan trọng. Một bà mẹ bị rối loạn nhịp đập tâm nhĩ trước thời gian người ta khuyên dùng thuốc chống đông tụ, bà đã bị một cơn đột quỵ dẫn đến hậu quả là 14 năm bị liệt. Việc phòng ngừa là yếu tố then chốt, nhưng việc theo dõi y tế tốt có thể phát hiện ra những vấn đề sức khỏe cần phải giải quyết. Chúng ta có thể phòng ngừa nhiều cơn đột quỵ qua việc nhận biết khôn ngoan về những dấu hiệu nguy hiểm.
Hầu hết đột quỵ xảy ra ở những người có chứng tăng huyết áp hay trong một gia đình có bệnh sử đột quỵ. Những dạng đột quỵ khác có thể liên quan đến chứng huyết khối hoặc sự nghẽn mạch (một cục máu di chuyển tới não). Một cơn đột quỵ xuất huyết xảy ra khi một mạch máu nổ ra và chảy máu vào não vì bị hư hại. Một người với những triệu chứng báo hiệu một cơn đột quỵ nên chú ý về mặt y học ngay lập tức, việc chẩn đoán có thể cho phép những tiêu chuẩn đánh giá khẩn cấp nhằm giảm thiểu sự nguy hiểm của cơn đột quỵ.
Việc phòng ngừa ở những nơi có thể thì tốt hơn.
Đối với người Cơ Đốc Phục Lâm, trong vòng những người được xếp là xem thường thuốc men, chúng ta cần nhận ra rằng những sự nghiên cứu cẩn thận cho thấy rằng việc dùng thuốc tăng huyết áp giảm nguy cơ bị đột quỵ 20 phần trăm. Việc dùng những chất ức chế enzim làm thay đổi kích thích tố tăng tăng huyết áp (ACE) xuất hiện để có một lợi ích được thêm vào và độc lập. Tôi nhấn mạnh ở điểm này không phải vì nó là đề xuất quan trọng nhất mà nó có thể là điểm dính liền chủ yếu đối với một số người, và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Rõ ràng là những ích lợi của việc rèn luyện và ăn uống ít mỡ và na-tri đóng một vai trò to lớn. Việc tránh hút thuốc và uống rượu cũng làm giảm nguy cơ đột quỵ. Trong khi thuốc men có thể giảm thiểu nguy cơ đột quỵ 22 phần trăm, thì một lối sống không lành mạnh làm tăng nguy cơ gấp đôi. Những người ăn trái cây và rau 5 lần mỗi ngày, tập luyện thường xuyên, tránh thuốc là và hạn chế uống rượu bị đột quỵ ít hơn phân nửa so với những người khác.
Việc kiểm tra sức khỏe toàn diện thì quan trọng. Một bà mẹ bị rối loạn nhịp đập tâm nhĩ trước thời gian người ta khuyên dùng thuốc chống đông tụ, bà đã bị một cơn đột quỵ dẫn đến hậu quả là 14 năm bị liệt. Việc phòng ngừa là yếu tố then chốt, nhưng việc theo dõi y tế tốt có thể phát hiện ra những vấn đề sức khỏe cần phải giải quyết. Chúng ta có thể phòng ngừa nhiều cơn đột quỵ qua việc nhận biết khôn ngoan về những dấu hiệu nguy hiểm.
Tôi có lượng mỡ cao trong mô mà bác sỹ của tôi quan tâm đến. Tôi nên sống lối sống như thế nào?
Dầu tiên, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trọng của việc nghe theo lời khuyên từ vị bác sỹ của bạn. Bác sỹ của bạn biết bạn một cách cá nhân, ở đây chúng tôi nói tới lối sống ở những mục này.
Mỡ trong mô cao có thể thực sự phản ảnh một điều kiện di truyền và có thể được làm giảm bớt bằng những loại thuốc men cụ thể, nhưng ở xã hội phương Tây ngày nay, sự phổ biến của việc mỡ trong mô cao có thể liên quan đến một phần ba dân số.
Việc mỡ trong mô cao có thể đóng một vai trò trong một vài điều kiện bao gồm bệnh tim, hội chứng thuộc về sự trao đổi chất, và bệnh viêm tụy.
Chứng mỡ cao trong mô là một dạng chất béo, ở mức độ cao được xem thấy ở những người bị bệnh béo phì, người thiếu hoạt động, người hút thuốc, người uống rượu nhiều, và những người tiêu thụ một lượng lớn hy-drát-các-bon. Việc tiêu thụ một lượng lớn đồ uống xô-đa ở một số vùng trên thế giới như Hoa Kỳ là một yếu tố rất quan trọng, vì nó góp phần đáng kể cho bệnh béo phì.
Lượng mỡ nên ít hơn 150 mg./dL. là bình thường. Mức độ cao trong giới hạn từ 150 đến 199, cao 200-499, rất cao trên 500 mg./dL.
Việc kiểm soát được trọng lượng, tập luyện và chế độ ăn tốt cho tim (ăn chay) có thể có ích. Rượu thì có hại đối với mức độ mỡ cao.
Mối nguy hiểm của lượng mỡ cao khiến nguy cơ bệnh tim tăng cao và gia tăng nguy cơ về chứng xơ cứng động mạch trong mạch máu. Việc biết các số liệu của bạn và giữ lượng mỡ trong giới hạn bình thường là quan trọng.
Mỡ trong mô cao có thể thực sự phản ảnh một điều kiện di truyền và có thể được làm giảm bớt bằng những loại thuốc men cụ thể, nhưng ở xã hội phương Tây ngày nay, sự phổ biến của việc mỡ trong mô cao có thể liên quan đến một phần ba dân số.
Việc mỡ trong mô cao có thể đóng một vai trò trong một vài điều kiện bao gồm bệnh tim, hội chứng thuộc về sự trao đổi chất, và bệnh viêm tụy.
Chứng mỡ cao trong mô là một dạng chất béo, ở mức độ cao được xem thấy ở những người bị bệnh béo phì, người thiếu hoạt động, người hút thuốc, người uống rượu nhiều, và những người tiêu thụ một lượng lớn hy-drát-các-bon. Việc tiêu thụ một lượng lớn đồ uống xô-đa ở một số vùng trên thế giới như Hoa Kỳ là một yếu tố rất quan trọng, vì nó góp phần đáng kể cho bệnh béo phì.
Lượng mỡ nên ít hơn 150 mg./dL. là bình thường. Mức độ cao trong giới hạn từ 150 đến 199, cao 200-499, rất cao trên 500 mg./dL.
Việc kiểm soát được trọng lượng, tập luyện và chế độ ăn tốt cho tim (ăn chay) có thể có ích. Rượu thì có hại đối với mức độ mỡ cao.
Mối nguy hiểm của lượng mỡ cao khiến nguy cơ bệnh tim tăng cao và gia tăng nguy cơ về chứng xơ cứng động mạch trong mạch máu. Việc biết các số liệu của bạn và giữ lượng mỡ trong giới hạn bình thường là quan trọng.
Allan R. Handysides, M.B., Ch.B., FRCPC, FRCSC, FACOG, là giám đốc của Ngành Mục Vụ Y Tế Toàn Cầu Tổng Hội.
Peter N. Landless, M.B., B.Ch., M.Med., F.C.P.(SA), F.A.C.C., là giám đốc điều hành ICPA và đồng giám đốc Ngành Mục Vụ Y Tế Toàn Cầu Tổng Hội.
Peter N. Landless, M.B., B.Ch., M.Med., F.C.P.(SA), F.A.C.C., là giám đốc điều hành ICPA và đồng giám đốc Ngành Mục Vụ Y Tế Toàn Cầu Tổng Hội.
(Theo Adventistworld.org)
Blogger Comment
Facebook Comment